watch sexy videos at nza-vids!

Avatar 242 HD - MXH Teen Đặc Biệt Ấn Tượng

Làng Xì Tin - MXH Đầy Cá Tính

Vua Đá Ngựa - Lucky Jee Jee

Dota Card - Game Thẻ Bài Của Các Vị Thần


HoMeSexGame
Game khủng 7 viên ngọc rồng cực hot!

NganThu.Mobi
Mỗi sinh mệnh

đều có một trường, trong

trường ấy là phạm vi thế lực

của sinh mệnh này. Sinh mệnh

nào tiến nhập vào trong trường

này thì phải phục tùng quy luật

của trường ấy; sau khi sinh

mệnh kia tiến nhập vào rồi thì

lại gia tăng năng lượng cho

trường ấy, khuyếch đại phạm vi

của trường ấy.

Từ quan điểm sinh mệnh có

khống chế trường mà nhìn nhận

về những sinh mệnh khống chế

con người như không gian, thời

gian, mệt mỏi, tưởng tượng,

ngủ, thống khổ, lười, phẫn

nộ,v.v. thì chúng tôi thấy rằng

chúng đều có phạm vi của bản

thân; chúng ta không tiến nhập

vào trong đó, thì chúng ta

không chịu sự khống chế của

chúng. Chúng ta không những

khái niệm ấy, thì chúng ta xung

xuất ra khỏi sự ràng buộc của

chúng. Ví dụ như “sợ”; [khi]

chúng ta sợ, thì chúng ta đang

chịu sự khống chế của trường

của “sợ”, thì phải chiểu theo

những sự việc mà quy luật của

nó ta bài cho chúng ta. Đồng

thời với cái sợ của chúng ta,

chúng ta cũng bồi bổ cho nó, bổ

xung cho lực lượng của nó, tăng

thêm phạm vi và cường độ cho

trường của nó. Khi mà trong

tâm chúng ta không có khái

niệm “sợ”, thì chúng ta ở ngoài

sự khống chế của loại sinh mệnh

“sợ” này.

Lấy thêm một ví dụ nữa, chẳng

hạn “phẫn nộ”; nó khởi tác dụng

là vì trong tư tưởng của chúng

ta có tồn tại loại vật chất ấy; khi

người ta phẫn nộ, người ta đã

bắt đầu bị phẫn nộ khống chế;

phẫn nộ có thể chi phối người

ta giận dữ mà thực hiện những

việc hết sức không có lý trí; sau

sự việc người ta có thể vô cùng

hối hận; tuy nhiên lúc ấy người

ta không cảm thấy được sự

khống chế bản thân mình, kỳ

thực là “phẫn nộ” đang khống

chế rất chắc. Như vậy nếu

chúng ta muốn thoát ly khỏi sự

khống chế của phẫn nộ, thì phải

vứt bỏ những thứ ấy ở trong

tư tưởng; trong tư tưởng

không có phẫn nộ, hỏi cái sinh

mệnh bên ngoài kia làm thế nào

khống chế chúng ta được? Ví

như một chiếc xe toàn là sắt, thì

khi đi trong từ trường liền bị

hút; [nếu] chúng ta lấy hết sắt

trên xe vứt bỏ đi, thì không có

từ trường nào hút được nữa.

Mỗi một sinh mệnh khống chế

con người đều có đặc điểm của

bản thân; như “phẫn nộ” và

“cừu hận”; hai loại sinh mệnh

này có thể chi phối người ta

đánh người, giết người; người

ta muốn đánh người, thì phải

điều động cái hoả khí của mình

lên; [còn nếu] con người ở trạng

thái từ bi và hoà ái, thì chư vị có

muốn giơ tay đấm người ta

cũng không được, bởi vì sinh

mệnh từ thiên không có khái

niệm đánh người, nó sẽ không

đánh người. Tôi nhớ rằng trên

mạng Internet có một bài của

một học viên viết về một đệ tử

Đại Pháp cao tuổi rất từ thiện

khi đưa mắt nhìn một cảch sát

tàn ác, tên cảnh sát tàn ác này

đang định đánh người nhưng

đã không thể tự chủ được mà

phải buông tay. Chính là cái

trường từ thiện của đệ tử Đại

Pháp ấy đã hoá giải cái trường

tà ác của tên cảnh sát kia, cảnh

sát tàn ác kia không còn sự

khống chế của hung thần nữa

thì không thể đánh người được

nữa. Ví dụ ấy thuyết minh một

vấn đề, rằng những sinh mệnh

cấp thấp phải chịu sự ước chế

của sinh mệnh cấp cao, thậm chí

bị sinh mệnh cấp cao tiêu dung,

giải thể. Từ bi có thể hoá giải tất

cả, thậm chí phá trừ hết thảy

những chấp trước; bởi vì nó vi

quan hơn, lực lượng lớn hơn, nó

là thể hiện của đặc tính vũ trụ.

Đặc điểm của từ thiện là [biết]

nghĩ cho người khác, ai ở trong

cảnh giới ấy, thì thái đô phi

thường hoà ái thân thiện, ở đâu

cũng rộng lượng với người

khác, làm người ta lập tức thấy

cảm kích và ấm cúng trong lòng;

đó là đặc điểm của sinh mệnh từ

thiện. “Thân tình” thì không thế,

thân tình {tình cảm thân quyến}

cũng có nội dung biết nghĩ đến

người khác, tuy nhiên nó có

thành phần tư tâm {ích kỷ}; nó

có sự thân cận đối với người

bên mình, nhưng lại lãnh đạm

với người ngoài; do đó nó

không phải tốt đẹp lắm. Cảnh

giới của từ bi là vô tư rộng lớn,

nó có một lực lượng có thể làm

người ta quên đi cái ‘tôi’ để

dung nhập vào trong đó.

Khi người ta nói [hoặc] làm một

việc đều có một trạng thái

đương thời, cũng chính là xuất

phát điểm; người ta khi nói

hoặc làm một việc ở trong một

trạng thái nào đó, thì sẽ mang

theo tất cả đặc điểm của trường

(hoặc cảnh giới) của sinh mệnh

trạng thái ấy. Chẳng hạn khi một

người ở trạng thái từ bi mà

thuyết nói, thì người khác sẽ

cảm thấy rất ấm cúng, sẽ rất

muốn tiếp cận chư vị, muốn tiếp

thụ chư vị. Còn khi người ta

đang muốn thuyết phục người

khác mà thuyết nói, thì người

khác sẽ cảm thấy một thứ áp

lực, như có điều gì công kích,

người đó sẽ sinh ra tâm lý bảo

vệ bản thân mình. Khi người ta

đang khi tâm lý hiển thị dấy

động lên mà giảng nói, người

khác sẽ cảm thấy sự tự tư {ích

kỷ}, và họ thấy chán ghét; bởi vì

trường vật chất mà sinh mệnh

“hiển thị” mang theo là tự tư.

Bất kể người ta có nguỵ trang

thế nào, thì cái trường kia vẫn ở

đó, không che đậy được.

Cùng một lời nói, tại những

trạng thái khác nhau, cũng chính

là tại các trường cảnh giới khác

nhau, thì hàm nghĩa bên trong

nhất định cũng khác nhau, hiệu

quả cũng khác nhau. Lời nói

không phải ở chỗ hoa lệ bên

ngoài, mà là ở chỗ nội hàm của

nó, ở chỗ cảnh giới của người

nói ra nó. Cuốn Chuyển Pháp

Luân của Sư phụ, hoàn toàn

dùng phương thức văn nói mà

viết thành, nhưng lại biểu đạt

được những nội hàm không gì

sánh được của Đại Pháp vũ trụ.

Do vậy, chúng ta thấy có những

người giảng thuyết đại đạo

thao thao bất tuyệt nhưng

chúng ta không cảm thấy gì.

Nhưng chỉ một câu của một bạn

đồng tu tối thuần tịnh “hãy

nghe giảng” lại đả động đến nội

tâm thâm sâu của chúng ta. Có

những lúc tôi cố gắng tận lực

điều chỉnh trạng thái của bản

thân để nói hoặc viết bài, cố

gắng tận lực dùng từ bi và hoà

ái trong nội tâm bản thân mình

mà nói và viết, thậm chí dùng

bản nguyên vô tư của sinh

mệnh bản thân mình để làm

việc. Đương nhiên tôi chưa có

làm được như thế, nhưng tôi cố

gắng làm như thế.

Có những sinh mệnh khống chế

con người cũng có trường thời

gian của bản thân nó, con người

ta tại các trạng thái khác nhau

thì thời gian trôi đi nhanh chậm

có khác nhau. Khi người ta ở

trong trường của sinh mệnh

“nóng ruột” thì thời gian chạy

rất chậm, còn trong trường của

sinh mệnh “cao hứng” thì thời

gian trôi rất mau.

Những đạo lý giả hư dối của

nhân loại lúc đầu khai thuỷ

không có phạm vi thế lực mạnh

mẽ như vậy; nó cũng là phạm vi

của trường, nhưng bởi vì con

người dần dần nhìn nhận chúng,

nên vô hình trung đã gia tăng

mật độ và phạm vi của trường

vật chất này. Trong phạm vi thế

lực của những đạo lý giả, người

ta chiểu theo những lý ấy mà

hành sự; như thế là ở trong

phạm vi của trường ấy thì

chúng quyết định, nhưng đó là

những điều không đúng, chúng

sẽ an bài cho chư vị những giả

tượng, cứ tựa như là đó là

những điều chính xác tuyệt đối.

Thuận theo năng lượng của

những đạo lý giả ấy tăng mạnh

lên, chúng sẽ quay trở lại ức chế

những sinh mênh tin vào chúng,

đi theo quỹ đạo của chúng.

Những đạo lý giả ấy ngày nay

đang làm hại con người rất ghê

gớm, như “vô thần luận”,

“thuyết tiến hoá luận”, những

thứ như “bắp tay sao sánh

được bắp chân”, “người khôn

bảo vệ lấy thân” {minh triết bảo

thân}, “người tốt chẳng sống

lâu” {hảo nhân mệnh bất

trường}, “người thiện bị người

khinh, ngựa hay bị người

cưỡi” {nhân thiện bị nhân khinh,

mã thiện bị nhân kỵ}, v.v. Khi

chúng ta uốn nắn lại những

quan niệm bại hoại ấy của

người thường (thậm chí của

bản thân chúng ta), thì cũng là

chúng ta đang từng bước thanh

trừ những thứ ấy, nếu không,

cái trường vật chất do chúng

tạo thành sẽ là trở lực trong

Chính Pháp của chúng ta.

Từ một tầng nhất định mà

giảng, những ràng buộc của sinh

mệnh chính là những ràng buộc

tư duy; như vậy chúng ta nếu

như muốn thoát ly khỏi khống

chế của những sinh mệnh tầng

thấp, thì trước hết chúng ta

phải từ trong tư tưởng không

có tiến nhập vào đó nữa, bài trừ

những vật chất của sinh mệnh

tầng thấp đang lưu tồn trong tư

tưởng, đả phá những ràng buộc

của những quan niệm ấy, cho

đến khi trong tư tưởng không

còn những vật chất của những

khái niệm ấy. Thân thể là do các

tế bào tổ hợp thành, tư tưởng

của tế bào hầu như tương đồng

với tư tưởng của đại não. Khi tư

tưởng của các tế bào đột phá

qua được những ràng buộc ấy

rồi, thì thân thể chúng ta cũng

hoàn toàn đột phá ra được, và

chúng ta sẽ tiến nhập sang một

cảnh giới khác. Tất nhiên, từ

một cảnh giới cao hơn mà xét,

thì tư duy cũng giống như sinh

mệnh, cũng có tồn tại về

trường, cũng có những ước chế,

cũng có những giới hạn; làm

Thần mà xét, thì chúng ta cũng

phải đột phá khỏi khống chế của

tư duy.

[Chỉ khi] đệ tử Đại Pháp không

có ràng buộc của những vật

chất tầng thấp ấy, thì mới thật

sự giải phóng được, công năng

mới có thể tuỳ ý sử dụng. Trong

bài “Công năng là gì” Sư phụ nói:

“Nguyên nhân căn bản là từ

tầng vũ trụ cao nhất cho đến

tầng vũ trụ thấp nhất thì [khi]

một sinh mệnh và cảnh giới của

nó càng xuống dưới [thì] tỷ

trọng của hết thảy những vật

chất trong ấy lại càng lớn hơn,

các viên lạp tử lại càng lớn hơn,

phụ trọng {trọng lượng phụ}

của sinh mệnh càng lớn hơn;

càng xuống dưới [thì] bản năng

(công năng) của sinh mệnh càng

bị chính thân vật chất ức chế

ngày càng nặng hơn, càng

không thể khởi tác dụng; đó là

nguyên nhân tạo thành [tình

huống] tầng càng thấp năng lực

càng ít.” Sinh mệnh nào càng bài

trừ những thứ vật chất ấy càng

nhiều, thì cảnh giới lại càng cao,

công năng mới lại càng mạnh.

Nếu như khi phát chính niệm mà

chúng ta hoài nghi, e sợ, muốn

thử, hiển thị, hoan hỷ thái quá,

cừu hận, v.v. thì khi có những

phụ trọng vật chất tầng thấp

nặng nề ấy, hỏi niệm của chúng

ta có được lực lượng gì không?

Hễ sai một niệm, thì đất trời

khác biệt; chỉ khi chính niệm

thuần tịnh, thì mới có uy lực vô

tỷ mà thôi.

Khi một đệ tử Đại Pháp không

có những vật chất phát sinh ấy,

thoát ly khỏi thời gian, không

gian, v.v. cũng những khống chế

khái niệm thiên sai vạn biệt, thì

đó là cái gì? Đó chính là bản lai

sinh mệnh chúng ta, là không gì

ở ngoài, không đầu không cuối

{vô ngoại bất tại, vô hữu thuỷ

chung}, tạo thành hết thảy bản

lai thời không và vật chất, nó

chính là cái bản thân “tôi”;

chúng ta là bản lai của cảnh giới

ở tầng ấy của chúng ta, nó là

nước bất động {bất động đích

thuỷ}. Khi mà tâm của tôi động

chạm đến được cảnh giới ấy, tôi

cảm thấy được sự vĩ đại của

cảnh giới đó, tất cả đều nắm giữ

ở trong đó. Những thứ ràng

buộc và khống chế kia chỉ là

phát sinh của sinh mệnh bản lai

của chúng ta; chúng ta có thể

tái tạo, tu chính, thậm chí lệnh

cho chúng không tồn tại nữa.

Những thứ biến dị và nguyên lai

ấy đều ở trong thân của tôi, tôi

đầy khắp tất cả {di mạn nhất

thiết}, tất cả đều ở trong tôi;

trừ ma cũng là [bài] trừ những

thứ của tự thân. Trong cảnh giới

ấy, tất cả đều trở nên giản đơn

như vậy…

Đại Pháp tạo thành hết thảy bản

lai trong vũ trụ, chúng ta chỉ cần

đồng hoá với Đại Pháp, chúng ta

mới có thể tìm đến bản thân {tự

kỷ} của mình; chỉ những điều

Đại Pháp mang cấp đến mới là

tự tại như ý tách ly khỏi hết

thảy những ràng buộc vật chất.

Đây là những điều ngộ được

trong khi học Pháp, nêu ra để

tham khảo.

Trang Chu

U-ON
Copyright © 2o1o-2o13 by Đức Tính. All rights reserved
Ads: Khí phách anh hùng 145 cực chất